Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
154955

Sự khác nhau về đăng ký việc nhận cha, mẹ, con tại UBND và xác định cha, mẹ, con tại Tòa án

Ngày 18/04/2023 13:51:21

Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và Luật hộ tịch thì cha, mẹ có quyền nhận (xác định) con và con cũng có quyền nhận (xác định) cha, mẹ. Tuy nhiên về thẩm quyền, thủ tục nhận cha, mẹ, con tại Ủy ban nhân dân và việc xác định cha, mẹ, con tại Tòa án nhân dân thì tùy trường hợp cụ thể, cũng có sự khác nhau như sau:
*Về xác định cha, mẹ, con tại Tòa án nhân dân: Ở chương 5, mục 2, từ điều 88 đến điều 92 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, có quy định:
- Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con (khi con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân, con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân) thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.
- Người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó là con mình.
- Người được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó không phải là con mình.
- Con có quyền nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết.
- Cha, mẹ có quyền nhận con, kể cả trong trường hợp con đã chết.
- Trong trường hợp có yêu cầu về việc xác định cha, mẹ, con mà người có yêu cầu chết thì người thân thích của người này có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ, con cho người yêu cầu đã chết.
Ngoài ra, khoản 2 điều 101 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết hoặc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp người có yêu cầu chết
Thủ tục giải quyết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
*Về đăng ký nhận cha, mẹ, con tại Ủy ban nhân dân: Ở khoản 1, điều 101 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, quy định: Cơ quan đăng ký hộ tịch (Ủy ban nhân dân) có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp.
Ủy ban nhân dân có thẩm quyền giải quyết là Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người nhận hoặc người được nhận là cha, mẹ, con (Điều 24 Luật hộ tịch)
Thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con tại Ủy ban nhân dân, người có yêu cầu phải nộp:
- Tờ khai đăng ký nhận cha, mẹ, con (theo mẫu).
- Chứng cứ chứng minh quan hệ cha con, mẹ, con.
- Khi đăng ký cha, mẹ, con các bên phải có mặt (các bên có nghĩa là người nhận, người được nhận phải còn sống vào thời điểm đăng ký)
Như vậy, để xác định thẩm quyền của Ủy ban nhân dân hay của Tòa án trong việc xác định cha, mẹ, con thì căn cứ vào 2 yếu tố: Một là việc nhận cha, mẹ, con đó có tranh chấp hay không; hai là các bên nhận cha, mẹ con còn sống hay đã chết. Nếu không có tranh chấp và các bên nhận cha, mẹ, con còn sống thì thẩm quyền giải quyết là của Ủy ban nhân dân. Nếu một trong các bên nhận cha, mẹ, con hoặc người yêu cầu đã chết thì thẩm quyền giải quyết thuộc về Tòa án nhân dân.

Sự khác nhau về đăng ký việc nhận cha, mẹ, con tại UBND và xác định cha, mẹ, con tại Tòa án

Đăng lúc: 18/04/2023 13:51:21 (GMT+7)

Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và Luật hộ tịch thì cha, mẹ có quyền nhận (xác định) con và con cũng có quyền nhận (xác định) cha, mẹ. Tuy nhiên về thẩm quyền, thủ tục nhận cha, mẹ, con tại Ủy ban nhân dân và việc xác định cha, mẹ, con tại Tòa án nhân dân thì tùy trường hợp cụ thể, cũng có sự khác nhau như sau:
*Về xác định cha, mẹ, con tại Tòa án nhân dân: Ở chương 5, mục 2, từ điều 88 đến điều 92 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, có quy định:
- Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con (khi con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân, con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân) thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.
- Người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó là con mình.
- Người được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó không phải là con mình.
- Con có quyền nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết.
- Cha, mẹ có quyền nhận con, kể cả trong trường hợp con đã chết.
- Trong trường hợp có yêu cầu về việc xác định cha, mẹ, con mà người có yêu cầu chết thì người thân thích của người này có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ, con cho người yêu cầu đã chết.
Ngoài ra, khoản 2 điều 101 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết hoặc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp người có yêu cầu chết
Thủ tục giải quyết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
*Về đăng ký nhận cha, mẹ, con tại Ủy ban nhân dân: Ở khoản 1, điều 101 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, quy định: Cơ quan đăng ký hộ tịch (Ủy ban nhân dân) có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp.
Ủy ban nhân dân có thẩm quyền giải quyết là Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người nhận hoặc người được nhận là cha, mẹ, con (Điều 24 Luật hộ tịch)
Thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con tại Ủy ban nhân dân, người có yêu cầu phải nộp:
- Tờ khai đăng ký nhận cha, mẹ, con (theo mẫu).
- Chứng cứ chứng minh quan hệ cha con, mẹ, con.
- Khi đăng ký cha, mẹ, con các bên phải có mặt (các bên có nghĩa là người nhận, người được nhận phải còn sống vào thời điểm đăng ký)
Như vậy, để xác định thẩm quyền của Ủy ban nhân dân hay của Tòa án trong việc xác định cha, mẹ, con thì căn cứ vào 2 yếu tố: Một là việc nhận cha, mẹ, con đó có tranh chấp hay không; hai là các bên nhận cha, mẹ con còn sống hay đã chết. Nếu không có tranh chấp và các bên nhận cha, mẹ, con còn sống thì thẩm quyền giải quyết là của Ủy ban nhân dân. Nếu một trong các bên nhận cha, mẹ, con hoặc người yêu cầu đã chết thì thẩm quyền giải quyết thuộc về Tòa án nhân dân.
0 bình luận
(Bấm vào đây để nhận mã)